Chủ nhật, 21/07/2024 15:38

logo homobq logo tim mạch

hotline

ĐỘT TỬ: NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG TRÁNH

5/5 - (1 bình chọn)

Đột tử: Nguyên nhân và các cách phòng tránh

BS Trần Quốc Khánh – Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

TS.BS. Nguyễn Văn Tuấn – Bệnh viện Quân y 103

 

Sau mỗi ca tử vong đột ngột xảy đến, luôn để lại những câu hỏi thậm chí là những thắc mắc, nghi ngờ từ người nhà bệnh nhân. Thực sự thì trong nhiều trường hợp, nhân viên y tế và các bác sỹ cũng rất khó có câu trả lời xác đáng nếu như gia đình bệnh nhân không đồng ý khám nghiệm pháp y. Người ra đi, đã đi mãi. Chúng ta, những người ở lại có nên hành động vội vàng hay mọi người cần bình tĩnh đi tìm hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện và nguyên nhân của cái chết, để từ đó có thể ngăn ngừa chúng trong tương lai.

Thu Thủy
Hoa hậu Nguyễn Thu THủy, sinh 1976 đã đột tử ngày 5/6/2021

1. Nguyên nhân

1.1. Nguyên nhân tim mạch

Trong các nguyên nhân về tim mạch nói cung thì do ngừng tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân chính. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đột tử. Mỗi năm có khoảng 326.000 bệnh nhân bị ngưng tim tại Mỹ và chỉ có khoảng 10,8% sống sót, trong đó nam giới chiềm phần lớn. Với nhồi máu cơ tim, chỉ tính tại Mỹ, cứ mỗi 43 giây lại có 1 người bị, trong đó khoảng 1/5 các trường hợp không có triệu chứng lâm sàng. Dữ liệu y tế được tổng hợp từ hơn 190 quốc gia cho thấy, bệnh tim vẫn là nguyên nhân gây tử vong số 1 trên toàn cầu với 17,3 triệu ca tử vong mỗi năm và dự kiến con số này sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu vào năm 2030. 

Tác DM vành tim

Tắc động mạch vành gây nhồi máu cơ tim là nguyên nhân chính gây đột tử

Nguyên nhân gây ngừng tim thường do bệnh cơ tim phì đại (là bệnh có yếu tố di truyền và đây là nguyên nhân hay gặp nhất), bất thường động mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, hội chứng Brugada… Tổn thương ngừng tim hay xảy đến với các vận động viên thể thao lúc đang thi đấu, đó là hiện tượng một vật tác động thẳng trực tiếp và đột ngột vào thành ngực ngừng tim. Tổn thương gặp ở hầu hết nam giới tuổi thiếu niên, hiếm gặp với người trên 20 tuổi. 

1.2. Đột quỵ não hay tai biến mạch máu não

Phình động mạch não

Phình động mạch não gây tử vong trước khi tới bệnh viện là 15%

Tai biến mạch máu não là nhóm nguyên nhân thứ hai dẫn đến cái chết đột ngột nhưng lại thường bị bỏ qua. Loại này có 2 dạng: do nghẽn mạch máu não hoặc do vỡ mạch máu não. Đột quỵ não gây đột tử là những trường hợp chảy máu dưới nhện mức độ rất nặng, chảy máu tiểu não lớn đè ép thân não, chảy máu cuống não lớn hoặc tắc động mạch thân nền. Người bệnh đột ngột đi vào hôn mê sâu rất nhanh, có thể tử vong trong giờ đầu hoặc ngày đầu của bệnh. Còn đa phần đột quỵ não diễn biến cấp tính, tăng dần từng nấc với thể nhồi máu não do huyết khối.

1.3. Cục máu đông làm tắc mạch phổi 

Nhồi máu phổi

Cục máu đông xuất hiện ở động mạch phổi làm tắc hệ thống mạch máu vào – ra ở phổi trong khi trao đổi khí dẫn đến cơ thể thiếu ô xy đột ngột và tử vong. Hằng năm có khoảng 60.000-100.000 người tử vong do tắc mạch phổi, trong đó đáng sợ hơn cả là có đến 25% chết bất thình lình với 2 triệu chứng thường gặp là khó thở và đau ngực. Các cục máu sâu thường hình thành khi chúng ta không hoạt động trong thời gian dài. Kết quả là, tắc mạch phổi thường xảy đến ở những người nằm liệt giường vì một căn bệnh nghiêm trọng hoặc chấn thương, hoặc những người đang hồi phục sau phẫu thuật. Nguy cơ này cũng tăng lên đối với những người ngồi lâu không vận động trong các chuyến bay đường dài hoặc các chuyến đi bằng ô tô.

1.4. Vỡ động mạch chủ 

TranQuocKhanh Nguyen%20nhan%20gay%20dot%20tu 4

Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể, bao gồm 1 đoạn chạy trong ngực và 1 đoạn chạy trong bụng, có nhiệm vụ như dòng kênh lớn nhất giúp lưu chuyển máu đi khắp cơ thể. Vì một lý do nào đó (tuổi già, bệnh mạn tính, nhiễm trùng, cao huyết áp…) làm thành mạch yếu đi, phình ra, gây nên phình động mạch chủ. Một trong số đó vỡ sẽ gây nên bệnh cảnh vỡ động mạch chủ, bệnh nhân mất máu rất nhanh và ồ ạt, 90% tử vong trong tích tắc.

1.5. Ngừng thở khi ngủ

Ngưng thở khi ngủ (Obstructive Sleep Apnea – OSA) là sự rối loạn trong giấc ngủ, trong đó có hiện tượng ngưng thở hơn 10 giây hay giảm thông khí lặp đi lặp lại nhiều lần trong đêm kèm triệu chứng ngủ ngáy và ngủ ngày quá mức. Bệnh nhân ngưng thở trong lúc ngủ thường duy trì khoảng trống đường thở trong khi thức nhưng biểu hiện tắc nghẽn khi đi sâu vào giấc ngủ. Giấc ngủ sâu của bệnh nhân bị gián đoạn bởi sự tắc nghẽn trầm trọng và kích thích tỉnh giấc để đi vào giấc ngủ nông. Sự tỉnh giấc này tái lập lại đường thở đi kèm với hít hơi dài.

Có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất ở trung niên, thường gặp ở nam giới. Những người béo phì, bất thường cấu trúc đường hô hấp trên (amidan quá phát, hàm nhỏ, lưỡi to,…), uống nhiều rượu bia, sử dụng thuốc an thần hoặc trong gia đình có người bị ngưng thở khi ngủ có nguy cơ bị ngưng thở khi ngủ cao hơn.

Chúng ngùng thỏ khi ngủ

Đường thở ở người bình thường và người có hội chứng ngưng thở khi ngủ

Những biến chứng của ngưng thở khi ngủ

Ngưng thở khi ngủ có thể gây ra thiếu oxy toàn thân, ảnh hưởng đến các cơ quan như tim, phổi, thận, tuyến tụy, não,… từ đó gây rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp, tăng nguy cơ đột quỵ do nhồi máu não, nhồi máu cơ tim. Hơn nữa, ngừng thở khi ngủ có thể gây đột tử ở người uống rượu say, do khi say rượu người bệnh ngủ quá sâu, mất phản xạ kích thích thở khi thiếu ô xy do ngừng thở khi ngủ, làm người bệnh chìm sâu trong giấc ngủ rồi tử vong.

Trên đây là 5 nhóm nguyên nhân chính gây nên đột tử, trong gây mê hồi sức còn một nhóm nguyên nhân nữa đó chính là sốc phản vệ và trào ngược dị vật vào đường thở. Với những bệnh cảnh ở trên, chúng ta hầu như có rất ít thời gian để xử lý, hoặc nếu có thì những hậu quả, di chứng để lại cho bệnh nhân cũng vô cùng nặng nề (sống thực vật, liệt nửa người, khuyết hụt thần kinh khu trú…). Chính vì vậy, chúng ta cần xây dựng lối sống lành mạnh và thực hành phòng bệnh, vì đó là yếu tố quyết định giúp ta hạn chế được rủi ro đột tử bất cứ lúc nào.

2. Cách phòng tránh
Với đột tử do ngừng tim, ngay cả ở nước Mỹ thì việc sàng lọc và kiểm soát những người có nguy cơ bị ngừng tim cũng vô cùng khó khăn và chưa hiệu quả. Vậy nên, dự phòng bằng cách giải quyết các yêu tố nguy cơ chính là chìa khóa của vấn đề:

– Người bệnh có tiền sử đau thắt ngực, loạn nhịp tim, tăng huyết áp, đái tháo đường thì rất cần khảo sát kỹ hơn tim. Đó là điện tim, siêu âm tim và chụp hệ động mạch vành xem có xơ vữa hẹp động mạch hay không.

– Những rủi ro ngưng tim thường xảy ra với người hút thuốc lá, dùng thuốc an thần lâu dài, bệnh tăng mỡ máu, bệnh cao huyết áp và một số bệnh lý khác. Chúng ta cần kiểm soát tốt những vấn đề này.

– Caffeine và nicotine đều có thể làm tăng nhịp tim và làm trầm trọng thêm vấn đề rối loạn nhịp tim đã tồn tại bằng cách làm cho tim đập nhanh hơn. Ngoài ra, thuốc bất hợp pháp như cocaine, amphetamines và các chất kích thích khác có thể gây rối loạn nhịp tim ngay cả ở những trái tim khỏe mạnh.

– Tiền sử gia đình có người thân độ 1 (cha mẹ, con cái, anh chị em) từng bị ngừng tim hoặc tai biến mạch não cũng rất vô cùng quan trọng. Vậy nên nếu ai có yếu tố liên quan này, cần tìm đến bác sỹ chuyên khoa tim mạch.

Với đột quỵ não não, vỡ động mạch chủ, những yếu tố dự phòng hàng đầu bao gồm:

  • Nên khảo sát trước hệ động mạch não, động mạch chủ xem có bị phình mạch, phình bóc tách hay hẹp mạch hay không. 

– Kiểm soát huyết áp, tiểu đường, không thuốc lá và hạn chế uống rượu, bia.

– Điều trị tốt bệnh lý tim như rung nhĩ, suy tim, bệnh mạch vành và chủ động khảo sát mạch máu não.

– Hạn chế lạm dụng thuốc ngừa thai, thuốc điều chỉnh hoc môn sinh dục, thuốc giảm đau không kê đơn (Naproxen, Ibuprofen…), tránh lối ăn nhiều dầu mỡ chiên rán và những thức ăn nhanh.

– Người chơi thể thao hoặc trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng có đau ngực trái, tức ngực, hồi hộp đánh trống ngực, xỉu… và tất cả người trên 65 tuổi nên chủ động đi khám tim mạch hàng năm.

– Thể thao đều đặn cũng là 1 yếu tố vô cùng quan trọng, giúp trái tim và thành mạch thêm dẻo dai, đàn hồi, đồng thời làm giảm lượng mỡ máu, mảng cholesterol thừa bám trong thành mạch.

– Cần lưu ý với những người đã từng có tiền sử chấn thương ngực – bụng, nhiễm trùng, phẫu thuật tim, lịch sử gia đình và di truyền… vì đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị phồng lóc và vỡ động mạch chủ.

Với thuyên tắc mạch phổi, những lưu ý dự phòng chính bao gồm:

– Phẫu thuật. Các phẫu thuật vùng bụng, xương chậu, thay khớp gối, khớp háng và gãy xương lớn như xương đùi… luôn có nguy cơ cao của thuyên tắc mạch phổi, đột tử. Người thầy thuốc cần thực hành dự phòng huyết khối trong phác đồ điều trị.

– Lưu ý với bệnh nhân ung thư. Một số bệnh ung thư có tác dụng làm quánh máu làm tăng nguy cơ hình thành máu cục lang thang trong lòng mạch. Điều này đặc biệt đúng đối với ung thư vùng chậu – bụng ở giai đoạn u tiến triển.

– Lưu ý với phụ nữ mang thai và sinh con: có nguy cơ thuyên tắc phổi cao hơn cả trong và ngay sau khi sinh con, đặc biệt đối với những người sinh mổ.

– Lưu ý với bệnh nhân nằm lâu sau mổ gãy xương, sau chấn thương cột sống liệt tay chân… Những người này luôn có nguy cơ cao tắc mạch phổi.

– Thuốc tránh thai, liệu pháp hormone, hút thuốc lá, người trên 70 tuổi, béo phì hoặc lịch sử tắc mạch phổi… cũng có nguy cơ cao bị tắc mạch phổi hơn những người khác./.

Bài viết hữu ích ?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Avatar of Tiến sĩ bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn

Tiến sĩ bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn

Chuyên khoa sâu về đột quỵ não và thần kinh uy tín với trên 20 năm kinh nghiệm nghiên cứu và chữa trị các bệnh thuộc chuyên khoa nội Thần kinh, đột quỵ não và phục hồi chức năng sau đột quỵ.

Xem thêm Tiến sĩ bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

zalo call